Tháng 01/1137, tướng Phá Tô Lăng của Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An-Đại Việt , bị Thái uý Lý Công Bình đánh bại .
Nhận lãnh ba thất bại liên tiếp, vua Chân Lạp Suryavarman II đành trút giận lên đồng minh Chiêm Thành tội nghiệp.
Theo Georges Maspero, vị vua Khmer-Chân Lạp lúc này không vui vẻ gì, đã trút hết mong muốn chinh phạt lên vua Chiêm Jaya Indravarman III. Vào 1145, Suryavarman II xâm chiếm Chiêm Thành và làm chủ kinh thành Vijaya-Đồ Bàn tỉnh Bình Định ngày nay .
Không ai biết kết cục của vua Chiêm Jaya Indravarman III ra sao ?
Có thể ông đã bị giết trong chiến đấu hoặc trở thành tù binh ?
Đại Việt - trận Như Nguyệt diễn ra từ giữa tháng 1/1077 đến cuối tháng 2/1077 kết thúc với chiến thắng thuộc về quân Đại Việt đã quyết định cục diện cuộc chiến. Sau gần 2 tháng chiến đấu, tướng Tống là Quách Quỳ đã buộc phải giảng hòa với Đại Việt, tránh cho mình nguy cơ toàn quân bị tiêu diệt. Cho đến thời điểm Tống – Việt nghị hòa, liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp đã chiếm được khá nhiều vùng đất phía nam nước Đại Việt. Các châu Ma Linh, Bố Chính, Lâm Bình đều thất thủ. Liên quân dưới sự chỉ huy của vua Harivarman IV đã tiến đến châu Nghệ An. Trong khi đó, ở Chân Lạp vua Harshavarman III đang chuẩn bị phái một đạo quân thứ hai sang chi viện cho quân Chiêm Thành. Nhưng đó là tất cả những gì liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp có thể làm được. Nghệ An lúc bấy giờ là một châu quan trọng, quân Đại Việt quyết tâm phòng thủ ngăn chặn kẻ địch.
Trong năm 1077, sau khi nghị hòa xong xuôi với Tống, Thái úy Lý Thường Kiệt liền tổ chức phản công toàn diện. Lúc này thì liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp không phải là đối thủ của quân Đại Việt. Rất nhanh chóng, quân Chiêm Thành và Chân Lạp bị đánh bật khỏi những vùng đất mới chiếm được. Quân Đại Việt thừa thắng đuổi sang đất Chiêm, chiếm lấy kinh thành Vijaya. Đất nước Chiêm lại một phen chấn động. Vua Harivarman IV cùng các lực lượng thân tín phải rút lên vùng cao nguyên cố thủ và gởi sứ giả đến bản doanh của Thái úy Lý Thường Kiệt để cầu hòa. Quân Đại Việt tuy đang thế mạnh, nhưng việc chiếm đóng đất đai Chiêm Thành ắt sẽ lại dẫn đến một cuộc chiến dài ngày hao người tốn của. Đây là điều mà triều đình Thăng Long không mong muốn bởi đất nước đã chịu nhiều chiến tranh. Sau khi cân nhắc, Thái úy Lý Thường Kiệt chấp nhận hòa đàm với điều kiện vua Chiêm phải chịu thuần phục và triều cống nước Đại Việt. Vua Harivarman IV lập tức đồng ý điều kiện đó và quân Đại Việt rút lui trên thế chiến thắng, hai nước đã thiết lập lại hòa bình.
Trong khi hai nước Đại Việt – Chiêm Thành đạt được thỏa thuận hòa bình thì đạo quân tiếp viện của Chân Lạp đã tiến sang đóng ở đất Panduranga ( Phan Rang- Ninh Thuận )của nước Chiêm. Chủ tướng của Chân Lạp là hoàng thân Sri Nandanavarmadeva khi hay tin Chiêm – Việt nghị hòa đã lấy cớ nước Chiêm Thành phản bội đồng minh mà chiếm luôn thành Panduranga. Từ chỗ là đồng minh của nhau, hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp bỗng chốc lại đổi thành kẻ thù. Thật ra đây là một sự trở mặt của chính người Chân Lạp, với những toan tính nước đôi từ ban đầu. Một nhánh quân Chân Lạp tiến đánh miền bắc Chiêm Thành, tàn phá thánh địa Mỹ Sơn. Từ cả hai hướng bắc và nam, quân Chân Lạp hình thành thế gọng kìm bao vây kinh thành Vijaya của Chiêm Thành. Vua Harivarman IV một mặt lãnh đạo các lực lượng quân dân người Chiêm chống trả quyết liệt, mặt khác gởi thư cầu cứu triều đình Đại Việt.
Với tư cách là nước bảo hộ, Đại Việt chấp nhận gởi quân sang cứu nước Chiêm. Một lần nữa Thái úy Lý Thường Kiệt lãnh trọng trách dẫn quân nam tiến. Được sự giúp đỡ của quân Đại Việt, vua Harivarman IV nhanh chóng lật ngược tình thế và đuổi đánh quân Chân Lạp chạy dài. Quân Chiêm Thành thừa thắng đuổi sang tận lãnh thổ Chân Lạp, hoàng thân Chiêm Thành là Pramabhodisattva cầm quân viễn chinh tận diệt đội quân của Sri Nandanavarmadeva trong một trận thủy chiến trên Biển Hồ. Thất bại này khiến cho Chân Lạp mất đi đáng kể những thành phần tinh túy trong quân đội của mình. Kế đó, quân Chiêm chiếm được thành Shambhupura của Chân Lạp và đốt phá tan hoang thành phố này.
Giai đoạn này có thể thấy trong khu vực liên tiếp diễn ra những cuộc chiến tranh đẫm máu lôi kéo hàng loạt quốc gia. Ngọn lửa chiến tranh đã liên tục dịch chuyển từ nước này sang nước khác. Sau khi thực hiện những đòn trả đũa mạnh mẽ đối với nước Chân Lạp, quân Chiêm Thành rút đi với số chiến lợi phẩm nhiều vô kể. Vua Harivarman IV từ đó bắt tay vào cuộc tái thiết đất nước và ngăn chặn những nguy cơ nội loạn, ly khai trong nước. Các đền đài và kinh đô được khẩn trương xây dựng lại. Nước Đại Việt kể từ sau cuộc chiến với Tống cũng đã tập trung vào việc xây dựng đất nước, củng cố nội trị. Vua Lý Nhân Tông với sự phò tá của Linh Nhân hoàng thái hậu, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái sư Lý Đạo Thành đã mở ra một thời kỳ hưng thịnh của Lý triều Đại Việt trong lịch sử Việt Nam.
NHỮNG TRẬN CHIẾN THỜI CẬN ĐẠI .
Người Khmer - Cao Miên hay Campuchia cứ nghĩ là : Họ đang sống trên đất gốc của tổ tiên họ lúc này . Nhưng thực ra đất mà họ đang sinh sống bây giờ hoàn toàn thuộc về đất nguồn gốc của Vương Quốc Phù Nam ( FuNan ) mà Khmer chỉ là một thuộc quốc nhỏ bé , chư hầu của Phù Nam , vị trí nằm ở phía tây bắc . Điều này đã được xác định rõ ràng dựa vào các khai quật di tích cổ xưa .
Đó là vùng Nam Lào ngày nay, phía bắc dãy núi DangRek biên giới bắc Campuchia ngày nay và thuộc tỉnh Champasak của Lào . Một vùng đất ngã ba trung lưu sông Mê Kông và sông Mae Nam Mun từ phía tây ( Thái Lan ) chảy qua . Vùng này phía nam cao nguyên Chorat của miền đông Thái Lan.
Di tích cổ đô đầu tiên Shrestapura của sắc tộc Khmer tại Wat Phou -Vat Phu - núi Phou Khao ( Lingaparvata Mountain ) , hiện nay thuộc khu vực Pacxe - Champassak của Nam Lào đã xác định điều này .
Vua đầu tiên mở ra để chế Khmer ngày xưa hay Campuchia ngày nay , đó là một tay lính Khmer gác mướn của vương triều Phù Nam , nhưng đã dấy loạn và dần dà chiếm đoạt các phần lãnh thổ của Vương Quốc Phù Nam bị suy yếu do chia rẽ .
Người gốc Khmer xưa di chuyển về phía Tây nam sông Mê Kông vì không đủ khả năng đóng thuyền bè và không đủ can đảm vượt qua thác Khone dữ dội trên sông Mê Kông - Champasak - Nam Lào .
Cho nên các di tích đền đài của Khmer tập trung ở phía tây Campuchia ngày nay - các đền thờ cổ xưa như : Vat Phu (Wat Phou), Preah Vihear , Koh Ker , Angkor Wat-Angkor Thom ... đều nằm bên phía tây ngạn sông Mê Kông và phía bắc biển Hồ-Tongle Sap .
Trong khi theo lịch sử ghi chép , truyền lại người gốc dân tộc Phù Nam lúc bấy giờ vào trước thế kỷ thứ 7 đã có một khả năng thương mại và đóng ghe thuyền hàng hải rất chuyên nghiệp tới các nước xung quanh khu vực Đông nam Á châu . Cứ chịu khó xem các cổ vật tại di tích khai quật Óc Eo là cố đô của Phù Nam , hiện nay thuộc miền An Giang - Việt Nam thì rõ . Khả năng di chuyển bằng đường biển của người xưa gốc Phù Nam . Hoàn toàn khác với người gốc Khmer xưa chỉ di chuyển trong đất liền, chứ không thông thạo đường thủy .
Rõ ràng di tích chứng minh : dân tộc Phù Nam - FuNan so sánh với Khmer - Campuchia là hai dân tộc hoàn toàn tuyệt đối khác nhau .
Cao Miên -Khmer-Campuchia đã đánh mất đất gốc của họ và gây ảo tưởng sống trên đất của Phù Nam là gốc rễ .
Thậm chí , văn hóa của họ cũng bị đồng hóa bởi văn minh Phù Nam rực rỡ từ trước thế kỷ thứ 7 . Mà sau khi xâm lăng và chiếm đoạt Vương Quốc Phù Nam . Người Khmer đã cướp lấy luôn văn hóa lịch sử nguồn gốc xuất xứ của dân tộc Phù Nam làm thành văn hóa của đế quốc Khmer và Campuchia ngày nay .
Người Khmer hay Campuchia hiện tại , vẫn sử dụng theo cái lối mòn suy luận sai ấy cho vấn để lãnh thổ tại Tây Nguyên hay Cao nguyên Trung Phần Việt Nam . Khi Khmer - Campuchia nghĩ rằng trong lịch sử chiến tranh xa xưa , có hai lần quân triều đình vua ChenLa - Chân Lạp tràn chiếm kinh đô Đồ Bàn và chia cắt nước Chiêm Thành ra hai tiểu quốc riêng biệt và đô hộ toàn vùng .
Khu vực các sắc tộc cao nguyên Trung Phần sinh sống chưa hình thành quốc gia nằm dưới sự cai trị lỏng lẻo của vua Chiêm Thành .
Theo lối suy luận xưa cũ chủ quan của Khmer - Chân Lạp hay Cao Miên - Campuchia thì Tây Nguyên hay cao nguyên Trung Phần Việt Nam , chắc chắn sẽ thuộc về đất đô hộ của Cao Miên - Campuchia . Bởi vì nó dưới quyền lực Chiêm Thành ảnh hưởng .
Đó là một tham vọng đầy ảo tưởng xa vời !
Nên nhớ rằng dân tộc Việt Nam hoàn toàn khác xa với sắc tộc Chàm - Chiêm Thành về tất cả : từ tinh thần phấn đấu cho sống còn và khả năng hy sinh chiến đấu để dân tộc Việt sinh tồn và phát triển ...
Phong trào Khmer "Cáp Duồn" tại Cao Miên-ChenLa - Campuchia trong lịch sử .
Cáp là chặt đầu, Duồn: ý chỉ người Việt Nam ... Cáp Duồn: ý chỉ 1 làn sóng chặt đầu người Việt, cướp của, hãm hiếp phụ nữ, xua đuổi người Việt ra khỏi vùng đất mà người Khmer cho là của họ.
Đây là 1 chương quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận-hiện đại, nhưng ít được đề cập và giảng dạy, đôi khi người ta cũng tránh né . Do có nhiều trường hợp xảy ra với mục tiêu " Ném đá , giấu tay " .
Tại sao gọi “yuon”-Duồn ?
Người dân ở những nước bị ảnh hưởng văn hoá Ấn độ gọi dân khác văn hoá là yuon, yuan, vv. biến thể từ chữ yuavana, có nghĩa là man di – một hình thức tự cao tự đại, cho rằng văn hoá của mình là số một. Chính vì vậy mà người Thái, Khmer, các dân tộc sống ở Mã Lai, người dân tộc thiểu số sống ở VN như: Ba Na, Stiêng, Ra Đê (Bahnar, Stieng , Rhade) đều dùng yuon để gọi người Kinh Việt Nam .
Thời buổi văn minh, tên gọi yuon Duồn không còn phổ biến (ngoại trừ người Khmer gọi người Việt), vì có ý nghĩa không lành mạnh.
Ngày nay, đảng đối lập Sam Rainsy và những phần tử quá khích người Khmer vẫn thường dùng từ "Duồn" này để chỉ người Việt Nam.
Theo nguồn sử sách :
- Vùng đất Hà Tiên, khi Mạc Cửu do tị nạn Mãn Thanh đến khai phá vào giữa thế kỷ 17 thì vùng đất này vẫn còn hoang sơ, vắng vẻ. Đến cuối thế kỷ trên, thì Hà Tiên đã trở thành một thương cảng sầm uất. Năm 1714, khi Mạc Cửu dâng đất lên cho chúa Nguyễn xin qui thuận bảo hộ , chúa Nguyễn dùng hai chữ Hà Tiên để đặt tên cho cả vùng đất bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang và một số vùng lân cận ngày nay.
- Đất Tân An và Gò Công vốn là đất Tầm Bôn và Lôi Lạp do Nặc Nguyên của Chân Lạp ( Lục Chân Lạp, tức Cao Miên ) dâng cho chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát để tạ tội mưu phản.
- Đất Trà Vinh và Sóc Trăng vốn là đất Préah Trapeang và Srok Trang do Nặc Nhuận cống nạp để cầu xin chúa Võ Vương chấp thuận phong làm vua Chân Lạp.
- Đất Châu Đốc và Sa Đéc, ở giữa sông Tiền và sông Hậu, phía bắc của vùng Préah Trapeang và Srok Trang, vốn là đất Kompong Luông ( Tầm Phong Long ) do Nặc Tôn nhờ Mạc Thiên Tứ ( Mạc Thiên Tứ là con của Mạc Cửu là một người gốc gác bên Tàu - Trung Hoa với bà vợ người Việt Nam ) xin cống nạp cho chúa Võ Vương để được phong là Phiên Vương. Đất Tầm Phong Long được Nguyễn Cư Trinh lập thành 3 đạo : Đông Khẩu đạo, Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ ( Vĩnh Long ).
- Ngoài ra, Nặc Tôn còn tặng riêng cho Mạc Thiên Tứ năm phủ là : Kompong Som ( Vũng Thơm ), Kampot ( Cần Bột ), Chal Chun ( Chưn Rùm ), Bantey Méas ( Sài Mạt ) và Raung Veng ( Lình Quỳnh ) để tạ ơn. Tuy nhiên, Mạc Thiên Tứ lại đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn.
Dưới áp lực quân sự và chính trị của các chúa Nguyễn, Cao Miên (Campuchia) đã bị mất một phần đất đai rộng lớn ...
Cao Miên, tây thì đối mặt Xiêm La (Siam- Thái Lan ngày nay), đông thì đối mặt Đại Việt (Việt Nam ngày nay), họa mất nước rất cận kề. Cho nên khi Pháp vào Đông Dương, hoàng gia và dân Campuchia rất nghênh đón, để giữ chủ quyền và chống lại sự bành trướng của 2 "ông lớn" phía đông là Đại Nam(Việt Nam) và phía tây là Xiêm La (Thái Lan) .
Tại sao có tên Nam Vang ? Ngày nay có nhiều người ăn hủ tiếu Nam Vang, nhưng không biết vì sao có từ Nam Vang? Nam Vang là cách gọi tiếng Việt của Phnompenh ngày nay. Theo sử ghi, thời vua Minh Mạng, tướng Trương Minh Giảng là tướng cai quản Cao Miên thời đó là con thứ năm trong gia đình , cho nên gọi thân mật là Năm Giảng .
Nhà Nguyễn - Việt Nam muốn Cao Miên đưa thủ phủ về Phnompenh. Lúc ấy, thành phố này gắn liền với tướng Trương Minh Giảng ( Trấn Tây Đại Tướng Quân ) tức là tướng Năm Giảng nên gọi là thành phố Năm Giảng, rồi gọi trại thành Nam Dang ( miền nam gọi Gi-D và V giống nhau), lâu ngày nói thành Nam Vang.
Sách Đại Việt Địa Dư Toàn Biên của Nguyễn Văn Siêu kể chi tiết :
Vào năm Minh Mạng thứ 16 ( 1836 ), nhà vua đã nghe chuẩn tấu của Trương Minh Giảng, lập đất Cao Miên thành quận huyện của Đại Nam, đặt tên là thành Trấn Tây. Năm Minh Mạng 19 ( 1839 ) Nặc Ong Yêm ( Ang Im, em của Ang Chan II và Ang Duong ) đem 9000 dân Khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang ( vùng Thái Lan chiếm đóng ) về Trấn Tây ( vùng Việt Nam cai quản ), định xin triều đình nhà Nguyễn cho được làm vua kế vị Ang Chan II, đã mất mà không có con trai nối ngôi. Trương Minh Giảng muốn giết đi, nhưng Minh Mạng chỉ cho phép bắt Ang Im về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam. Đến năm Minh Mạng thứ 21 ( 1841 ), Trà Long ( Chakrey Long ), Nhân Vu ( Yumreach Hu ) và La Kiên đến Huế mừng thọ, thì Minh Mạng lại kể tội và đày ra Hà Nội. Rồi Tham tán Trấn Tây là Dương Văn Phong khép cho Ngọc Biện, em gái Ngọc Vân, tội mưu phản trốn sang Xiêm phải xử tử. Trương Minh Giảng đưa Ngọc Vân, Ngọc Thu và Ngọc Nguyên, các con gái Ang Chan II về Gia Định an trí. Nên người Cao Miên thất vọng oán ghét quân Đại Nam.
Đến 1945 trở đi thì "Cáp Duồn" trở thành như là một "quốc sách" của nhà nước Cao Miên ...
"Đảng cộng sản Đông Dương" đã quy tụ các phần tử cộng sản của cả ba nước Việt - Miên - Lào, nhưng đương nhiên, cộng sản Miên - Lào chỉ giữ chân "điếu đóm", nên đã ngấm ngầm bất mãn ... Rồi để tập hợp được mọi lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Pháp, đảng cộng sản đã tự tuyên bố giải tán, nhưng ngầm hoạt động bí mật ẩn núp dưới danh nghĩa "hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương" ... Đến 1951, sau khi đã thâm nhập được vào các lực lượng kháng chiến, thâu tóm được quyền lực, giành được ưu thế trên chiến trường, cộng sản lại lộ diện thành "đảng lao động Việt Nam", các phần tử cộng sản Miên - Lào được tách ra thành lập đảng riêng, nhưng vẫn phải chịu sự khống chế của cộng sản Việt ...do đó Khmer Cộng cũng đã thù ghét , bí mật Cáp Duồn CSHCM .
Năm 1970, thời biến động Sihanouk - Lon nol, tướng Đỗ Cao Trí và Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Dù, đã phải trực tiếp qua Cao Miên điều động lính dù VNCH giải cứu Việt kiều khỏi nạn "Cáp Duồn", bà con Việt kiều Campuchia có làm tượng tướng Đỗ Cao Trí để thờ ... Các tướng lĩnh VNCH thời đó đòi "bình định Cao Miên" trong vòng 24 giờ ...
Campuchia-Cao Miên là nước trung lập nên VNCH và Mỹ không được xâm phạm lãnh thổ của họ, nhưng Nam Vang thân Bắc Kinh nên VNDCCH ( CSHCM ) đặt cục R ( trung ương cục miền Nam ) trên lãnh thổ Campuchia để chỉ huy chiến trường Miền Nam và vận chuyển vũ khí . Khi Campuchia thi hành chính sách Cáp Duồn, thì VNCH có lý do để dốc toàn lực sang cứu, nhân tiện đánh thẳng vào cục R …
Sau cuộc bầu cử Quốc Hội Campuchia 1969, tướng Lon nol một lần nữa trở lại vai trò thủ tướng đã bổ nhiệm hoàng thân Sirik Matak ( em họ của vua Sihanouk ) làm phó. Sirik Matak liền thực hiện chuyến viếng thăm Hà Nội, với mục đích “đẩy” cục R ra khỏi đất nước ông để giữ thế trung lập cho Campuchia , và ông đã tức điên lên khi được thấy tài liệu có chữ ký của vua Norodom Sihanouk đồng ý cho CSHCM thành lập các căn cứ quân sự và vận chuyển vũ khí qua các cảng của Campuchia . Ngày 12 / 03 / 1970, lợi dụng lúc Sihanouk đang ở Paris, hoàng thân Sirik Matak cùng với Lon nol lập tức ra tối hậu thư cho tất cả quân đội Bắc và Nam Việt rời khỏi Campuchia trước bình minh ngày 15 / 03 ( thời hạn 48 giờ qua mà không có bất kỳ phản ứng nào từ phía Việt Nam ) nên ngày 18 / 03, Sirik Matak hỗ trợ Lon nol tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" lật đổ Sihanouk với lý do để giải quyết các cuộc bạo động chống Việt Nam ( có khả năng do chính hai ông này tạo ra ). Như vậy, chính quyền Lon nol - Sirik Matak chống Việt Nam ( cả 2 miền ), nhưng lý do đưa ra chỉ “một nửa” Miền Nam, vì nửa kia còn kẹt chữ ký của Sihanouk. Khai thác được tinh thần chống Việt Nam ( cả 2 miền ) của dân Campuchia , cuộc chính biến đã thành công, Lon nol làm tổng thống thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa cho Campuchia , Sirik Matak làm thủ tướng. Nhưng chỉ ba tháng sau Lon nol đã phải từ chức với lý do "sức khỏe" ...
Bởi thế sau 1975, nếu có nhắc đến sự kiện này thì "người ta" cũng chỉ nói một nửa : "Mượn cớ Campuchia giết người Việt, quân đội VNCH đã xua quân sang để giết người Việt". Đúng ra là phải thế này : Quân đội VNCH đã tràn sang Campuchia để cứu Việt kiều và giết cộng sản HCM !
Tháng 5 - 1975, với sự giúp sức của Trung cộng - đồng chí cộng sản "đàn anh" của cộng sản HCM , Khmer Đỏ - đồng chí cộng sản "đàn em" của cộng sản HCM mới vừa cùng "sát cánh chiến đấu" chống Mỹ , đã ngay lập tức trở mặt, "Cáp Duồn" dã man để phục hận, dẫn đến "chiến tranh biên giới Tây Nam" ...
Ngày nay, Campuchia vẫn muốn thân Trung quốc hơn Việt Nam là vì vua Norodom Sihanouk của Cao Miên - Campuchia có xu hướng thiên tả Xã hội Chủ nghĩa .
Ông ta lưu vong rất lâu , ăn nhờ ở đậu trên đất Trung quốc và muốn nhờ sức mạnh của Trung cộng kiềm chế Việt Nam để bảo vệ Campuchia . Bởi vì thế lực của nước Pháp bảo hộ Cao Miên đã mất hẳn năm 1954 sau trận Điện Biên Phủ tại tây bắc Việt Nam .
Đầu tháng 4/1955, ông tuyên bố thành lập đảng Sangkum Reastr Niyum (Cộng đồng Xã hội Chủ nghĩa Bình dân) do ông lãnh đạo. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 11/9/1955, bằng các biện pháp ép buộc và dọa dẫm, đảng Sangkum Reastr Niyum giành 83% số phiếu và toàn bộ số ghế trong Quốc hội.
Từ 18/4/1955 đến 24/4/1955, Sihanouk dẫn đầu một đoàn đại biểu đi Bandung dự hội nghị của Phong trào Không liên kết. Từ năm 1956 Norodom Sihanouk bắt đầu trở nên thân thiết với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Kim Nhật Thành. Sau này ông vẫn gắn bó với Trung quốc đến mức sống những ngày cuối đời ở đất nước này-TQ.
Sau khi cha ông mất năm 1960, Sihanouk không đề cử ai làm Quốc vương mà được Quốc hội bổ nhiệm vào chức Quốc trưởng với danh vị hoàng thân.
Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra, Sihanouk tán thành chính sách Bên thứ 3 chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời có quan hệ ngoại giao với cả Trung quốc và Hoa Kỳ. Năm 1963, ông khước từ cứu trợ của Hoa Kỳ.
Tháng 2/1959, cơ quan Tình báo Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa hợp tác với tướng Campuchia Dap Chhoun âm mưu đảo chính lật đổ Sihanouk để đưa Sơn Ngọc Thành lên làm lãnh đạo Campuchia do Sihanouk có khuynh hướng ngả theo Bắc Kinh-TQ. Khi cuộc đảo chính bùng nổ thì lực lượng Quân khu IV và Quân khu II của Việt Nam Cộng hòa sẽ tiến đến biên giới giúp Dap Chhoun chiếm lĩnh khu vực Đông – Bắc Campuchia. Tuy nhiên, giờ khởi sự bị đình lại vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan để xin viện trợ quân sự cho mặt trận phía Tây. Chính sự trì hoãn này đã làm cho âm mưu bị bại lộ. Ngay khi phát hiện âm mưu đảo chính, Sihanouk giao Lon nol thống lãnh lực lượng lính dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào Siem Reap khi Dap Chhoun còn ngủ. Dap Chhoun cải trang trốn thoát. Quân Lon nol chiếm dinh thống đốc Siem Reap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kg vàng, hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa và đài vô tuyến cùng một số vũ khí. Hôm sau, Sihanouk mời tất cả viên chức ngoại giao nước ngoài, trong đó có ông Ngô Trọng Hiếu, đặc sứ Việt Nam Cộng hòa tại Campuchia, đến Siem Reap. Tại dinh thống đốc Siem Reap, Sihanouk không ngớt lời thóa mạ Duồn “kẻ thù dân tộc Khmer” và bọn “tay sai đế quốc" rồi trưng ra tất cả nhân chứng lẫn vật chứng trong đó có 100 kg vàng đóng dấu ngân khố Việt Nam Cộng Hòa, hệ thống điện đài và hai điệp viên mang thông hành Việt Nam Cộng Hòa. Hai điệp viên Việt Nam Cộng Hòa bị kết án tử hình còn Dap Chhoun bị lực lượng lính dù của Lon nol bắt và hạ sát.
Ngày 22 tháng 6 năm 1961 cho biết tòa án Quân sự Campuchia kết án tử hình một điệp viên chính quyền Ngô Đình Diệm, về tội "mưu sát quốc vương và hoàng hậu Campuchia" và tội "làm gián điệp cho Mỹ – Diệm phá hoại nền an ninh Campuchia". Người này là chủ nhiệm tờ Hồn Việt và tờ Tự do xuất bản tại Phnompenh các năm 1956–1957. Chính phủ Campuchia bắt được nhiều giấy tờ chứng tỏ điệp viên này nhận lệnh của chính quyền Ngô Đình Diệm "âm mưu phá hoại nền an ninh Campuchia", trong đó có cả thư khen của ông Diệm gửi cho ông ta ...
Một kế hoạch ám sát Sihanouk được ông Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến thảo luận chi tiết, sau khi mưu đảo chính tại Campuchia thất bại.
Tuy nhiên âm mưu ám sát bất thành , Sihanouk may mắn thoát chết...Do có sự nhúng tay của gián điệp nhị trùng CS ...?
Danh sách những vụ Cáp Duồn được ghi chép trong lịch sử:
1. Sử Miên ghi: năm 1730 một người Lào tị nạn, tự xưng là tiên tri đã xúi giục một nhóm người Khmer cuồng tín hạ sát tất cả người Việt nào mà họ bắt gặp trong vùng Banam. Đây là vụ Cáp Duồn đầu tiên.
2. Theo nhà văn Pháp Louis-Eugene Louvet, viết trong cuốn sách “Đức cha Adran”: ngày 13/11/1769, một toán cướp Khmer và Tàu kéo nhau đánh phá ngôi nhà của giám mục Bá Đa Lộc ở hòn Đất, ngoài khơi Hà Tiên. Họ chỉ chém giết, hảm hiếp con chiên người Việt, vì kỳ thị chủng tộc.
3. Vẫn trong quyển sách của ông Louvet, giữa năm 1778, một toán cướp Khmer đánh phá nhà thờ Pinha-leu do Giám mục Bá Đa Lộc vừa xây xong ở vùng Hà Tiên và giết mọi người Việt mà chúng bắt gặp.
4. Sử Miên ghi: Quốc vương Ang Non II ( 1775-79) rất ghét người Việt, đến nỗi có lần ông ta nghĩ sẽ tàn sát tất cả người Việt trên đất Cao Miên .
5. Sử Miên ghi: Dưới triều Ang Chan II (1796-1834), năm 1818, một số người Việt bị tàn sát ở tỉnh Baphnom và quân VN đang đóng ở Cao Miên đã đến nơi can thiệp.
6. Suốt thời gian bảo hộ Cao Miên ... Việt Nam - Trấn Tây Đại Tướng Quân Trương Minh Giảng sửa đổi cơ cấu hành chánh, vi phạm phong tục tập quán của người Khmer đã khiến giới sư sãi và dân chúng phẫn uất nên họ vùng lên chống lại. Những năm từ 1841 đến khi quân VN rút khỏi Cao Miên (1845), nhiều cuộc tàn sát Việt Kiều đã diễn ra ở khắp nơi tại Cao Miên và tại miền Tây VN.
7. Chiến dịch Cáp Duồn 1945-46 đã được trình bày trong phần trên . Sau vụ này chỉ có Phnompenh, Seam Reap và thành phố biển Sihanoukville là tương đối an toàn đối với người Việt trên toàn cõi Cao Miên – dĩ nhiên là với điều kiện không xảy ra đụng chạm, tranh chấp với người Khmer.
8. Năm 1970, chính phủ Cao Miên (Lon nol) phát động chiến dịch Cáp Duồn toàn quốc. TV, radio, báo chí đua nhau kể tội, nói xấu người Việt mỗi ngày. Bức hình “ba cái đầu người Khmer chụm lại làm ba ông táo” lại tái xuất hiện và nhiều bài viết kích động có tính bịa dặt được tuyên tuyền liên tục nhằm dấy lên làn sóng bài Việt, vốn luôn âm ỉ trong lòng người dân Khmer, sẵn sàng bùng lên khi có cơ hội hoặc bị khích động. Có từ hàng chục đến cả trăm xác chết Việt kiều trôi trên sông Mekong và hồ Tonle Sap mỗi ngày. Người Việt bị ruồng bắt để nhốt tù hay để bắn giết một cách dã man.
9. Thảm sát từ tháng 5 năm 1975 đến năm 1979, Polpot chiếm quyền tại Campuchia và thực hiện chính sách "Cáp Duồn" triệt để , nhằm phục tùng mệnh lệnh từ tay trùm chủ Trung cộng . Mục đích chiến lược hai gọng kìm Sắc Mạnh từ hướng - Bắc và Tây nam để khống chế Việt Nam ./.
( 1/Hành Quân Toàn Thắng 42-43 năm 1970 trên đông phần Cao Miên do Quân Lực VNCH chỉ huy tác chiến và 2/ Quân Tình nguyện Việt Nam làm Nhiệm vụ Quốc tế trên đất chùa tháp Campuchia năm 1978-1989 do quân đội CSHCM tiến hành - sẽ tiếp theo trong bài sau .)
Gửi ý kiến của bạn